Đầu mặt cổ là gì? Các công bố khoa học về Đầu mặt cổ
Đầu mặt cổ là một thuật ngữ sử dụng trong giải phẫu học để chỉ phần giao giữa đầu và cổ của con người. Nó được hình thành bởi hai khung xương chính là hộp sọ (đ...
Đầu mặt cổ là một thuật ngữ sử dụng trong giải phẫu học để chỉ phần giao giữa đầu và cổ của con người. Nó được hình thành bởi hai khung xương chính là hộp sọ (đầu) và xương cột sống cổ (cổ).
Đầu mặt cổ bao gồm các bộ phận và cấu trúc quan trọng phục vụ các chức năng khác nhau. Dưới đây là một số chi tiết về các phần của đầu mặt cổ:
1. Đầu: Đầu gồm hộp sọ, chứa và bảo vệ não. Hộp sọ bao gồm các xương sọ, bao gồm xương trán, xương thái dương, xương sọ sau và xương xương. Các xương sọ nối với nhau tạo thành một cái nắp bảo vệ não khỏi tổn thương.
2. Mặt: Mặt là bộ phận phía trước của đầu, bao gồm các cấu trúc như quả cầu mắt, mũi, miệng và tai. Mặt chịu trách nhiệm cho các chức năng quan trọng như thị giác, hô hấp, nếp nhăn, nuốt và nghe.
3. Cổ: Cổ là phần dẫn xuất từ hộp sọ và kết thúc ở vai. Xương cột sống cổ có thể linh hoạt và giúp chúng ta cử động đầu, cẳng tay và làm gương mặt. Nó cũng bảo vệ các cột sống cổ và tạo lối vào cho hệ thần kinh và các mạch máu.
4. Mạch máu và hệ thần kinh: Đầu mặt cổ có nhiều mạch máu và hệ thần kinh để cung cấp dưỡng chất và tin tức đến các cơ quan và bộ phận khác trong cơ thể. Hệ thần kinh phục vụ chức năng như cảm nhận, chuyển động và điều chỉnh các hoạt động của các cơ quan và cơ bắp.
5. Mô mềm và cơ: Đầu mặt cổ cũng gồm các mô mềm và cơ, bao gồm da, mỡ, cơ và mô liên kết. Mô mềm và cơ giúp bảo vệ và tạo hình cho đầu mặt cổ, đồng thời cũng tham gia vào các chức năng như nhai, di chuyển và biểu hiện cảm xúc.
Đầu mặt cổ là một phần quan trọng của cơ thể và đóng vai trò quan trọng trong các chức năng cần thiết để sống và tương tác với môi trường xung quanh.
Để đưa ra thêm thông tin chi tiết hơn về đầu mặt cổ, chúng ta có thể xem xét các cấu trúc và chức năng cụ thể của từng phần:
1. Hộp sọ:
- Xương trán: Đây là phần trên cùng của hộp sọ, ở phía trước hộp sọ.
- Xương thái dương: Xương này nằm ở phía sau xương trán và kéo dài xuống phía sau vai.
- Xương sọ sau: Nằm ở phía sau và bảo vệ phần sau của não.
- Xương xương: Xương này nằm ở phía dưới hộp sọ và tạo ra cơ sở cho khuôn mặt.
2. Mặt:
- Quả cầu mắt: Bộ phận quan trọng cho thị giác, nơi mà ánh sáng được nhìn thấy và chuyển đổi thành thông tin gửi lên não.
- Mũi: Chức năng chính của mũi là hô hấp và cảm nhận mùi.
- Miệng: Dùng để nhai, nuốt, nói và biểu hiện cảm xúc.
- Tai: Có hai phần chính, tai ngoài và tai trong. Tai ngoài giúp tập trung âm thanh và tai trong giúp truyền đạt âm thanh vào não.
3. Cổ:
- Xương cột sống cổ: Xương cột sống cổ của con người bao gồm bảy đốt cổ, cho phép chúng ta cử động đầu và cổ. Nó cũng bảo vệ hệ thần kinh và mạch máu cộng hưởng đến đầu và cổ.
- Cơ cổ và cơ vùng cổ: Cái cổ chứa nhiều cơ nhỏ giúp cử động và duy trì đầu và cổ ở vị trí đúng.
4. Mạch máu và hệ thần kinh:
- Mạch máu: Có nhiều mạng lưới mạch máu phục vụ cung cấp máu và dưỡng chất cho đầu mặt cổ. Mạch máu cũng giúp điều chỉnh nhiệt độ và cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho các cấu trúc trong khu vực này.
- Hệ thần kinh: Đầu mặt cổ có nhiều mạng lưới thần kinh phục vụ cho giác quan, cảm giác, chuyển động và điều chỉnh các chức năng cơ bản của hệ thần kinh.
5. Cơ và mô mềm:
- Da: Da bao phủ toàn bộ đầu mặt cổ và có vai trò bảo vệ, bảo vệ khỏi tổn thương và các yếu tố môi trường bên ngoài.
- Cơ: Đầu mặt cổ chứa nhiều nhóm cơ, bao gồm cơ mím, cơ nhai, cơ nấm và các cơ khác. Các cơ này giúp chúng ta thực hiện các chức năng như nhai, nuốt, biểu cảm và di chuyển khuôn mặt.
Tóm lại, đầu mặt cổ là một hệ thống rất phức tạp với nhiều cấu trúc và chức năng, từ thị giác, hô hấp, năn, nghe, di chuyển và biểu hiện cảm xúc. Tất cả các cấu trúc và chức năng này làm cho đầu mặt cổ trở thành một bộ phận quan trọng và không thể thiếu của cơ thể con người.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đầu mặt cổ":
Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Hoa Kỳ, gây ra hơn 40.000 cái chết mỗi năm. Các khối u vú này bao gồm những dân số tế bào ung thư vú có nhiều kiểu hình đa dạng. Sử dụng mô hình trong đó các tế bào ung thư vú người được nuôi cấy trong chuột suy giảm miễn dịch, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ một số ít tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u mới. Chúng tôi đã phân biệt được giữa các tế bào ung thư có khả năng khởi xướng u (gây u) với các tế bào ung thư không gây u dựa vào biểu hiện dấu mốc trên bề mặt tế bào. Chúng tôi đã tiên đoán nhận diện và cô lập các tế bào gây u như là CD44 + CD24 −/thấp Dòng − trong tám trên chín bệnh nhân. Chỉ cần 100 tế bào có kiểu hình này cũng đã có thể hình thành khối u ở chuột, trong khi hàng chục nghìn tế bào có kiểu hình khác không thể hình thành khối u. Quần thể gây u có khả năng được nối nhau liên tục: mỗi lần các tế bào trong quần thể này tạo ra khối u mới chứa thêm các tế bào gây u CD44 + CD24 −/thấp Dòng −, cũng như các quần thể hỗn hợp có nhiều kiểu hình đa dạng của các tế bào không gây u có mặt trong khối u ban đầu. Khả năng nhận diện tiên đoán các tế bào ung thư có khả năng gây u sẽ giúp việc làm sáng tỏ các con đường điều tiết sự phát triển và sống sót của chúng. Hơn nữa, bởi vì những tế bào này thúc đẩy sự phát triển khối u, các chiến lược nhằm vào quần thể này có thể dẫn tới các liệu pháp hiệu quả hơn.
Phân tích hệ phát sinh chủng loại của 330 trình tự gen plastid
Tối ưu hóa liệu pháp khởi phát lui bệnh và điều trị sau lui bệnh ở người cao tuổi mắc bệnh bạch cầu myeloid cấp (AML) là chủ đề của một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những bệnh nhân trên 60 tuổi. Liệu pháp hóa trị khởi phát được so sánh giữa daunomycin (DNR) 30 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3 so với mitoxantrone (MTZ) 8 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3, cả hai đều kết hợp với cytarabine (Ara-C) 100 mg/m2 vào các ngày 1 đến 7. Sau khi đạt tình trạng lui bệnh hoàn toàn (CR), bệnh nhân nhận một chu kỳ hóa trị DNR hoặc MTZ bổ sung và sau đó đủ điều kiện tham gia một phân bổ ngẫu nhiên thứ hai giữa tám chu kỳ Ara-C liều thấp (LD) 10 mg/m2 tiêm dưới da mỗi 12 giờ trong 12 ngày mỗi 6 tuần hoặc không điều trị thêm.
Tổng cộng có 242 bệnh nhân được phân bổ ngẫu nhiên vào DNR và 247 vào MTZ. Độ tuổi trung vị của cả hai nhóm nghiên cứu là 68 tuổi. Bệnh AML thứ phát được ghi nhận ở 26% và 25% bệnh nhân ở mỗi nhánh. Xác suất đạt CR cao hơn (P = .069) với MTZ (47%) so với DNR (38%). Thời gian trung vị của tình trạng hạ bạch cầu trung tính là 19 (DNR) và 22 ngày (MTZ). Tỷ lệ đáp ứng cao hơn với liệu pháp MTZ liên quan đến việc giảm tỷ lệ kháng thuốc hóa trị (32% so với 47%, P = .001). Với thời gian theo dõi trung vị 6 năm, tỷ lệ sống không bệnh trong 5 năm (DFS) là 8% cho mỗi nhóm. Dự đoán sống còn tổng thể không khác biệt giữa các nhóm (6% so với 9% sau 5 năm). Tình trạng hoạt động kém tại thời điểm chẩn đoán, số lượng bạch cầu cao, tuổi cao, AML thứ phát và sự hiện diện của các bất thường về di truyền tế bào đều có tác động tiêu cực đến sự sống sót. AML thứ phát và di truyền tế bào bất thường dự đoán thời gian CR ngắn hơn. Trong số những người phản ứng hoàn toàn, 74 bệnh nhân có thể đánh giá được chỉ định Ara-C và 73 bệnh nhân không điều trị thêm. Tỷ lệ DFS được công bố có ý nghĩa kéo dài hơn (P = .006) cho nhóm điều trị Ara-C (13% [SE = 4.0%] sau 5 năm) so với nhóm không điều trị (7% [SE = 3%]), nhưng tỷ lệ sống còn tổng thể thì tương tự (P = .29): 18% (SE = 4.6%) so với 15% (SE = 4.3%). Phân tích tổng hợp về giá trị của liệu pháp Ara-C sau lui bệnh xác nhận các kết quả này.
Ở những bệnh nhân cao tuổi chưa được điều trị trước đó với AML, liệu pháp khởi phát MTZ tạo ra tỷ lệ CR có phần tốt hơn so với chế độ có DNR, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đối với thời gian lui bệnh và sống sót. Ara-C trong duy trì có thể kéo dài DFS, nhưng không cải thiện tỷ lệ sống sót.
Để đánh giá liệu việc đo mức độ protein nhau thai 13 (PP‐13) và protein liên quan đến thai kỳ A (PAPP‐A) trong huyết thanh mẹ ở khoảng thời gian từ 11 + 0 đến 13 + 6 tuần có ích trong việc dự đoán những phụ nữ sẽ phát triển tiền sản giật hay không, khi kết hợp với chỉ số tần số mạch động mạch tử cung ở quý hai được đo bằng siêu âm Doppler.
Đây là một nghiên cứu nhóm điều tra có kiểm soát đối chứng của các trường hợp tiền sản giật với các đối chứng được ghép theo tuổi thai và thời gian bảo quản huyết thanh mẹ. Mẫu máu được thu thập như một phần của chương trình sàng lọc dị tật nhiễm sắc thể ở quý đầu và thường xuyên được kiểm tra mức PAPP‐A. Mức PP‐13 được kiểm tra bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym (ELISA) bởi một giám định viên không biết kết quả thai kỳ. Tất cả bệnh nhân cũng đã trải qua siêu âm Doppler để đo chỉ số tần số mạch trung bình (PI) ở tuần 22-24 của thai kỳ.
Có 446 đối chứng và 44 trường hợp tiền sản giật sớm trong đó việc sinh được kích thích trước tuần thứ 35. Thêm vào đó, còn có 44 trường hợp tiền sản giật không được kích thích sinh trước kỳ hạn. Mức PP‐13 trung vị cho nhóm đối chứng, tất cả các trường hợp và các trường hợp tiền sản giật sớm lần lượt là 176.9, 121.9 và 111.7 pg/mL, với bội số trung vị (MoMs) lần lượt là 1.00, 0.69 và 0.63 (
Các mức PP‐13 ở quý đầu có thể hữu ích trong việc dự đoán tiền sản giật và tiền sản giật sớm, và độ chính xác của phương pháp này tăng lên khi kết hợp với việc đo PI Doppler ở quý hai. Mặc dù PAPP‐A ở quý đầu cung cấp một số dự đoán cho tiền sản giật khi kết hợp với PI, nhưng không làm tăng khả năng dự đoán tiền sản giật sớm khi PP‐13 và PI được sử dụng cùng nhau. Các nghiên cứu bổ sung là cần thiết để xác định giá trị thực sự của PP‐13 trong sàng lọc tiền sản giật ở quý đầu. Bản quyền © 2006 ISUOG. Xuất bản bởi John Wiley & Sons, Ltd.
Ung thư đường tiêu hóa là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nam giới và đứng thứ hai ở phụ nữ tại Iran. Một nghiên cứu đã được tiến hành để khảo sát tình trạng lo âu và trầm cảm trong nhóm bệnh nhân này và xem xét liệu việc nhận thức về chẩn đoán ung thư có ảnh hưởng đến nỗi đau tâm lý của họ hay không.
Đây là một nghiên cứu cắt ngang về lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa đến khám tại Viện Ung thư Tehran. Lo âu và trầm cảm được đo bằng Thang đo Lo âu và Trầm cảm Bệnh viện (HADS). Đây là một bảng hỏi hợp lệ và được sử dụng phổ biến để đo lường nỗi đau tâm lý ở bệnh nhân ung thư. Dữ liệu nhân khẩu học và lâm sàng cũng được thu thập để khảo sát lo âu và trầm cảm trong các nhóm bệnh nhân, đặc biệt là những người biết về chẩn đoán ung thư của mình và những người không biết.
Các bệnh nhân mắc hội chứng viêm bàng quang/đau bàng quang (IC/BPS) thường phải đối mặt với chất lượng cuộc sống kém do cơn đau mãn tính. Trong các nghiên cứu trước đây của chúng tôi, chúng tôi đã xác định rằng tình trạng viêm thần kinh ở sừng lưng tủy sống (SDH) có liên quan đến các cơ chế của viêm bàng quang. Hơn nữa, đã có nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố dinh dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF) tham gia vào việc điều chỉnh viêm thần kinh và cơn đau bệnh lý thông qua tín hiệu BDNF-TrkB; tuy nhiên, vai trò của nó trong viêm bàng quang do cyclophosphamide (CYP) gây ra vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu này nhằm xác nhận xem tín hiệu BDNF-TrkB có điều chỉnh được viêm thần kinh và cảm giác đau cơ học trong viêm bàng quang do CYP gây ra hay không và xác định cách thức xảy ra.
Trong lĩnh vực sinh học tổng hợp đang nổi lên, các mô hình kỹ thuật gần đây đã được sử dụng để thiết kế các hệ thống sinh học với chức năng mới. Một trong những thách thức thiết yếu cản trở việc xây dựng những hệ thống như vậy là cần phải tối ưu hóa chính xác mức biểu hiện protein để đảm bảo hoạt động ổn định. Tuy nhiên, việc thiết kế các chuỗi mRNA để biểu hiện với mức protein mục tiêu là rất khó khăn, vì chỉ cần vài thay đổi nucleotide xung quanh codon khởi đầu có thể thay đổi hiệu suất phiên dịch và làm thay đổi đáng kể (lên tới 250 lần) mức biểu hiện protein. Các nghiên cứu trước đây đã sử dụng những phương pháp
Chúng tôi đề xuất một mô hình toán học tập trung vào sự khởi đầu phiên dịch, là bước giới hạn tốc độ trong phiên dịch. Mô hình sử dụng động lực học gấp nếp mRNA và động lực học gắn ribosome để ước lượng hiệu suất phiên dịch chỉ từ thông tin chuỗi mRNA. Chúng tôi đã xác nhận tính khả thi của mô hình này bằng cách sử dụng dữ liệu biểu hiện đã báo cáo trước đó về protein vỏ MS2. Để xác nhận thêm, chúng tôi đã sử dụng mô hình của mình để thiết kế 22 chuỗi mRNA
Chúng tôi mô tả một mô hình toán học sử dụng thông tin chuỗi mRNA để ước lượng hiệu suất phiên dịch. Mô hình này có thể được sử dụng để thiết kế các chuỗi mRNA phù hợp nhất có mức biểu hiện protein mong muốn, qua đó tạo điều kiện cho việc sản xuất protein quá mức trong sinh học công nghệ hoặc tối ưu hóa mức biểu hiện protein cần thiết cho việc xây dựng các mạng lưới ổn định trong sinh học tổng hợp.
Việc phát triển các vật liệu chống dầu cơ khí bền vững dưới nước là rất quan trọng do nhu cầu cao cho những vật liệu này khi các hoạt động dưới nước gia tăng. Dựa trên nghiên cứu trước đây, một chiến lược mới được thể hiện để chuẩn bị các vật liệu chống dầu cơ khí bền dưới nước bằng cách kết hợp các thuộc tính xung đột sử dụng một cấu trúc dị thể, có kết cấu bên trong dày đặc với lớp cấu trúc vi mô/nao cột trên bề mặt và cấu trúc ngoài ưa nước. Lớp ưa nước trên bề mặt mang lại khả năng siêu chống dầu trong môi trường nước và độ bám dính dầu thấp cho vật liệu, với góc tiếp xúc dầu lớn hơn 150° và độ bám dính thấp hơn 2.8 µN. Đặc tính ổn định của độ bền cơ học bắt nguồn từ cấu trúc bên trong có lớp chống nước cho phép vật liệu chịu được tải trọng lớn dưới nước. Độ căng và độ cứng của phim heterostructure như vậy sau 1 tháng ngâm trong nước biển và dung dịch pH dao động từ 83.92 ± 8.22 đến 86.73 ± 7.8 MPa và từ 83.88 ± 6.8 đến 86.82 ± 5.64 MPa, tương ứng, vượt trội hơn bất kỳ vật liệu chống dầu nào dưới nước hiện được báo cáo.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10