Đầu mặt cổ là gì? Các công bố khoa học về Đầu mặt cổ

Đầu mặt cổ là một thuật ngữ sử dụng trong giải phẫu học để chỉ phần giao giữa đầu và cổ của con người. Nó được hình thành bởi hai khung xương chính là hộp sọ (đ...

Đầu mặt cổ là một thuật ngữ sử dụng trong giải phẫu học để chỉ phần giao giữa đầu và cổ của con người. Nó được hình thành bởi hai khung xương chính là hộp sọ (đầu) và xương cột sống cổ (cổ).
Đầu mặt cổ bao gồm các bộ phận và cấu trúc quan trọng phục vụ các chức năng khác nhau. Dưới đây là một số chi tiết về các phần của đầu mặt cổ:

1. Đầu: Đầu gồm hộp sọ, chứa và bảo vệ não. Hộp sọ bao gồm các xương sọ, bao gồm xương trán, xương thái dương, xương sọ sau và xương xương. Các xương sọ nối với nhau tạo thành một cái nắp bảo vệ não khỏi tổn thương.

2. Mặt: Mặt là bộ phận phía trước của đầu, bao gồm các cấu trúc như quả cầu mắt, mũi, miệng và tai. Mặt chịu trách nhiệm cho các chức năng quan trọng như thị giác, hô hấp, nếp nhăn, nuốt và nghe.

3. Cổ: Cổ là phần dẫn xuất từ hộp sọ và kết thúc ở vai. Xương cột sống cổ có thể linh hoạt và giúp chúng ta cử động đầu, cẳng tay và làm gương mặt. Nó cũng bảo vệ các cột sống cổ và tạo lối vào cho hệ thần kinh và các mạch máu.

4. Mạch máu và hệ thần kinh: Đầu mặt cổ có nhiều mạch máu và hệ thần kinh để cung cấp dưỡng chất và tin tức đến các cơ quan và bộ phận khác trong cơ thể. Hệ thần kinh phục vụ chức năng như cảm nhận, chuyển động và điều chỉnh các hoạt động của các cơ quan và cơ bắp.

5. Mô mềm và cơ: Đầu mặt cổ cũng gồm các mô mềm và cơ, bao gồm da, mỡ, cơ và mô liên kết. Mô mềm và cơ giúp bảo vệ và tạo hình cho đầu mặt cổ, đồng thời cũng tham gia vào các chức năng như nhai, di chuyển và biểu hiện cảm xúc.

Đầu mặt cổ là một phần quan trọng của cơ thể và đóng vai trò quan trọng trong các chức năng cần thiết để sống và tương tác với môi trường xung quanh.
Để đưa ra thêm thông tin chi tiết hơn về đầu mặt cổ, chúng ta có thể xem xét các cấu trúc và chức năng cụ thể của từng phần:

1. Hộp sọ:
- Xương trán: Đây là phần trên cùng của hộp sọ, ở phía trước hộp sọ.
- Xương thái dương: Xương này nằm ở phía sau xương trán và kéo dài xuống phía sau vai.
- Xương sọ sau: Nằm ở phía sau và bảo vệ phần sau của não.
- Xương xương: Xương này nằm ở phía dưới hộp sọ và tạo ra cơ sở cho khuôn mặt.

2. Mặt:
- Quả cầu mắt: Bộ phận quan trọng cho thị giác, nơi mà ánh sáng được nhìn thấy và chuyển đổi thành thông tin gửi lên não.
- Mũi: Chức năng chính của mũi là hô hấp và cảm nhận mùi.
- Miệng: Dùng để nhai, nuốt, nói và biểu hiện cảm xúc.
- Tai: Có hai phần chính, tai ngoài và tai trong. Tai ngoài giúp tập trung âm thanh và tai trong giúp truyền đạt âm thanh vào não.

3. Cổ:
- Xương cột sống cổ: Xương cột sống cổ của con người bao gồm bảy đốt cổ, cho phép chúng ta cử động đầu và cổ. Nó cũng bảo vệ hệ thần kinh và mạch máu cộng hưởng đến đầu và cổ.
- Cơ cổ và cơ vùng cổ: Cái cổ chứa nhiều cơ nhỏ giúp cử động và duy trì đầu và cổ ở vị trí đúng.

4. Mạch máu và hệ thần kinh:
- Mạch máu: Có nhiều mạng lưới mạch máu phục vụ cung cấp máu và dưỡng chất cho đầu mặt cổ. Mạch máu cũng giúp điều chỉnh nhiệt độ và cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho các cấu trúc trong khu vực này.
- Hệ thần kinh: Đầu mặt cổ có nhiều mạng lưới thần kinh phục vụ cho giác quan, cảm giác, chuyển động và điều chỉnh các chức năng cơ bản của hệ thần kinh.

5. Cơ và mô mềm:
- Da: Da bao phủ toàn bộ đầu mặt cổ và có vai trò bảo vệ, bảo vệ khỏi tổn thương và các yếu tố môi trường bên ngoài.
- Cơ: Đầu mặt cổ chứa nhiều nhóm cơ, bao gồm cơ mím, cơ nhai, cơ nấm và các cơ khác. Các cơ này giúp chúng ta thực hiện các chức năng như nhai, nuốt, biểu cảm và di chuyển khuôn mặt.

Tóm lại, đầu mặt cổ là một hệ thống rất phức tạp với nhiều cấu trúc và chức năng, từ thị giác, hô hấp, năn, nghe, di chuyển và biểu hiện cảm xúc. Tất cả các cấu trúc và chức năng này làm cho đầu mặt cổ trở thành một bộ phận quan trọng và không thể thiếu của cơ thể con người.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đầu mặt cổ":

Nhận diện tiên đoán tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 100 Số 7 - Trang 3983-3988 - 2003

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Hoa Kỳ, gây ra hơn 40.000 cái chết mỗi năm. Các khối u vú này bao gồm những dân số tế bào ung thư vú có nhiều kiểu hình đa dạng. Sử dụng mô hình trong đó các tế bào ung thư vú người được nuôi cấy trong chuột suy giảm miễn dịch, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ một số ít tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u mới. Chúng tôi đã phân biệt được giữa các tế bào ung thư có khả năng khởi xướng u (gây u) với các tế bào ung thư không gây u dựa vào biểu hiện dấu mốc trên bề mặt tế bào. Chúng tôi đã tiên đoán nhận diện và cô lập các tế bào gây u như là CD44 + CD24 −/thấp Dòng trong tám trên chín bệnh nhân. Chỉ cần 100 tế bào có kiểu hình này cũng đã có thể hình thành khối u ở chuột, trong khi hàng chục nghìn tế bào có kiểu hình khác không thể hình thành khối u. Quần thể gây u có khả năng được nối nhau liên tục: mỗi lần các tế bào trong quần thể này tạo ra khối u mới chứa thêm các tế bào gây u CD44 + CD24 −/thấp Dòng , cũng như các quần thể hỗn hợp có nhiều kiểu hình đa dạng của các tế bào không gây u có mặt trong khối u ban đầu. Khả năng nhận diện tiên đoán các tế bào ung thư có khả năng gây u sẽ giúp việc làm sáng tỏ các con đường điều tiết sự phát triển và sống sót của chúng. Hơn nữa, bởi vì những tế bào này thúc đẩy sự phát triển khối u, các chiến lược nhằm vào quần thể này có thể dẫn tới các liệu pháp hiệu quả hơn.

#Ung thư vú #tế bào gây u #CD44 #CD24 #Dấu mốc bề mặt tế bào #Chuột suy giảm miễn dịch #Khối u mới #Liệu pháp ung thư
Một phân loại học về cây họ Đậu (Leguminosae) dựa trên phân tích gen plastid matK giải quyết nhiều nhánh con được hỗ trợ tốt trong họ Dịch bởi AI
American Journal of Botany - Tập 91 Số 11 - Trang 1846-1862 - 2004

Phân tích hệ phát sinh chủng loại của 330 trình tự gen plastid matK, đại diện cho 235 giống từ 37 trên 39 tộc, và bốn taxa ngoài nhóm từ eurosids I hỗ trợ nhiều nhánh con được phân giải rõ ràng trong họ Đậu (Leguminosae). Những kết quả này nói chung nhất quán với những gì được rút ra từ dữ liệu trình tự plastid khác (rbcLtrnL), nhưng cho thấy mức độ phân giải và hỗ trợ nhánh cao hơn tổng thể. Cụ thể, tính đơn nguyên của tông Papilionoideae và ít nhất bảy nhánh lớn được hỗ trợ tốt bởi giá trị bootstrapping và độ tin cậy của Bayesian. Các nhánh này được công nhận không chính thức là nhánh Cladrastis, genistoid sensu lato, dalbergioid sensu lato, mirbelioid, millettioid, và robinioid, cùng với nhánh thiếu lặp lại đảo ngược (IRLC). Nhánh genistoid được mở rộng để bao gồm các giống như Poecilanthe, Cyclolobium, Bowdichia, và Diplotropis và do đó chứa hầu hết các giống papilionoid được biết đến có khả năng sản xuất alkaloid quinolizidine. Nhánh dalbergioid được mở rộng để bao gồm tông Amorpheae. Nhánh mirbelioid bao gồm các tông Bossiaeeae và Mirbelieae, với Hypocalypteae là nhóm chị em của nó. Nhánh millettioid bao gồm hai nhánh con lớn tương ứng với các tông Millettieae và Phaseoleae và đại diện cho nhánh papilionoid lớn duy nhất được đánh dấu bởi một apomorphy hình thái học vĩ mô, cụm hoa giả chùm. Nhánh robinioid được mở rộng để bao gồm Sesbania và các thành viên của tông Loteae. IRLC, nhánh có nhiều loài nhất, là chị em với robinioids. Phân tích dữ liệu matK liên tục xác định nhưng hỗ trợ khiêm tốn một nhánh bao gồm các taxa papilionoid tích lũy canavanine trong hạt. Điều này gợi ý một nguồn gốc đơn nhất cho sự tổng hợp sinh học của axit amin không protein được sản xuất phổ biến nhất trong họ đậu.

Mitoxantrone so với daunorubicin trong liệu pháp hóa trị khởi phát-củng cố - giá trị của cytarabine liều thấp trong duy trì tình trạng lui bệnh, và đánh giá các yếu tố tiên lượng trong bệnh bạch cầu myeloid cấp ở người cao tuổi: báo cáo cuối cùng. Tổ chức châu Âu về Nghiên cứu và Điều trị Ung thư và Nhóm Hợp tác Huyết học - Ung thư Đan Mạch-Bỉ Hovon. Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 16 Số 3 - Trang 872-881 - 1998
MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP

Tối ưu hóa liệu pháp khởi phát lui bệnh và điều trị sau lui bệnh ở người cao tuổi mắc bệnh bạch cầu myeloid cấp (AML) là chủ đề của một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những bệnh nhân trên 60 tuổi. Liệu pháp hóa trị khởi phát được so sánh giữa daunomycin (DNR) 30 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3 so với mitoxantrone (MTZ) 8 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3, cả hai đều kết hợp với cytarabine (Ara-C) 100 mg/m2 vào các ngày 1 đến 7. Sau khi đạt tình trạng lui bệnh hoàn toàn (CR), bệnh nhân nhận một chu kỳ hóa trị DNR hoặc MTZ bổ sung và sau đó đủ điều kiện tham gia một phân bổ ngẫu nhiên thứ hai giữa tám chu kỳ Ara-C liều thấp (LD) 10 mg/m2 tiêm dưới da mỗi 12 giờ trong 12 ngày mỗi 6 tuần hoặc không điều trị thêm.

KẾT QUẢ

Tổng cộng có 242 bệnh nhân được phân bổ ngẫu nhiên vào DNR và 247 vào MTZ. Độ tuổi trung vị của cả hai nhóm nghiên cứu là 68 tuổi. Bệnh AML thứ phát được ghi nhận ở 26% và 25% bệnh nhân ở mỗi nhánh. Xác suất đạt CR cao hơn (P = .069) với MTZ (47%) so với DNR (38%). Thời gian trung vị của tình trạng hạ bạch cầu trung tính là 19 (DNR) và 22 ngày (MTZ). Tỷ lệ đáp ứng cao hơn với liệu pháp MTZ liên quan đến việc giảm tỷ lệ kháng thuốc hóa trị (32% so với 47%, P = .001). Với thời gian theo dõi trung vị 6 năm, tỷ lệ sống không bệnh trong 5 năm (DFS) là 8% cho mỗi nhóm. Dự đoán sống còn tổng thể không khác biệt giữa các nhóm (6% so với 9% sau 5 năm). Tình trạng hoạt động kém tại thời điểm chẩn đoán, số lượng bạch cầu cao, tuổi cao, AML thứ phát và sự hiện diện của các bất thường về di truyền tế bào đều có tác động tiêu cực đến sự sống sót. AML thứ phát và di truyền tế bào bất thường dự đoán thời gian CR ngắn hơn. Trong số những người phản ứng hoàn toàn, 74 bệnh nhân có thể đánh giá được chỉ định Ara-C và 73 bệnh nhân không điều trị thêm. Tỷ lệ DFS được công bố có ý nghĩa kéo dài hơn (P = .006) cho nhóm điều trị Ara-C (13% [SE = 4.0%] sau 5 năm) so với nhóm không điều trị (7% [SE = 3%]), nhưng tỷ lệ sống còn tổng thể thì tương tự (P = .29): 18% (SE = 4.6%) so với 15% (SE = 4.3%). Phân tích tổng hợp về giá trị của liệu pháp Ara-C sau lui bệnh xác nhận các kết quả này.

KẾT LUẬN

Ở những bệnh nhân cao tuổi chưa được điều trị trước đó với AML, liệu pháp khởi phát MTZ tạo ra tỷ lệ CR có phần tốt hơn so với chế độ có DNR, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đối với thời gian lui bệnh và sống sót. Ara-C trong duy trì có thể kéo dài DFS, nhưng không cải thiện tỷ lệ sống sót.

Mức độ PP‐13 trong huyết thanh mẹ, PAPP‐A ở quý đầu và chỉ số tần số mạch Doppler động mạch tử cung ở quý hai như là các chỉ dấu của tiền sản giật Dịch bởi AI
Wiley - Tập 29 Số 2 - Trang 128-134 - 2007
Tóm tắtMục tiêu

Để đánh giá liệu việc đo mức độ protein nhau thai 13 (PP‐13) và protein liên quan đến thai kỳ A (PAPP‐A) trong huyết thanh mẹ ở khoảng thời gian từ 11 + 0 đến 13 + 6 tuần có ích trong việc dự đoán những phụ nữ sẽ phát triển tiền sản giật hay không, khi kết hợp với chỉ số tần số mạch động mạch tử cung ở quý hai được đo bằng siêu âm Doppler.

Phương pháp

Đây là một nghiên cứu nhóm điều tra có kiểm soát đối chứng của các trường hợp tiền sản giật với các đối chứng được ghép theo tuổi thai và thời gian bảo quản huyết thanh mẹ. Mẫu máu được thu thập như một phần của chương trình sàng lọc dị tật nhiễm sắc thể ở quý đầu và thường xuyên được kiểm tra mức PAPP‐A. Mức PP‐13 được kiểm tra bằng phương pháp xét nghiệm miễn dịch liên kết enzym (ELISA) bởi một giám định viên không biết kết quả thai kỳ. Tất cả bệnh nhân cũng đã trải qua siêu âm Doppler để đo chỉ số tần số mạch trung bình (PI) ở tuần 22-24 của thai kỳ.

Kết quả

Có 446 đối chứng và 44 trường hợp tiền sản giật sớm trong đó việc sinh được kích thích trước tuần thứ 35. Thêm vào đó, còn có 44 trường hợp tiền sản giật không được kích thích sinh trước kỳ hạn. Mức PP‐13 trung vị cho nhóm đối chứng, tất cả các trường hợp và các trường hợp tiền sản giật sớm lần lượt là 176.9, 121.9 và 111.7 pg/mL, với bội số trung vị (MoMs) lần lượt là 1.00, 0.69 và 0.63 (P < 0.001). MoMs của PAPP‐A lần lượt là 1.00, 0.89 (P = 0.076) và 0.89 (P = 0.042) và PI trung bình lần lượt là 1.0, 1.6 (P < 0.001) và 1.7 (P < 0.001) cho các đối chứng, tất cả các trường hợp và các trường hợp sớm. Phân tích đường cong ROC cho tất cả các trường hợp hoặc các trường hợp sớm so với đối chứng đã cho ra diện tích dưới đường cong cho PP‐13, PAPP‐A và PI lần lượt là 0.68 (95% CI, 0.61–0.74; P < 0.001), 0.56 (95% CI, 0.49–0.63; P = 0.076) và 0.79 (95% CI, 0.72–0.87; P < 0.001) cho tất cả các trường hợp và 0.71 (95% CI, 0.63–0.79; P < 0.001), 0.59 (95% CI, 0.51–0.68; P = 0.076) và 0.86 (95% CI, 0.77–0.94; P < 0.001) cho các trường hợp sớm. Tại độ nhạy được thiết lập là 0.80, độ nhạy lần lượt là 0.50, 0.23 và 0.76 cho PP‐13, PAPP‐A và PI trong các trường hợp sớm và 0.44, 0.24 và 0.73 ở tất cả các trường hợp. Kết hợp PP‐13 và PI với phân tích hồi quy logistic cho ra diện tích dưới đường cong là 0.84 (95% CI, 0.78–0.90; P < 0.001) và độ nhạy 0.74 cho tất cả các trường hợp, và 0.90 (95% CI, 0.84–0.96; P < 0.001) và độ nhạy 0.79 cho các trường hợp sớm. Kết hợp PAPP‐A với PI cho diện tích dưới đường cong là 0.82 (95% CI, 0.76–0.90; P < 0.001) và độ nhạy 0.76 cho tất cả các trường hợp. Kết hợp PAPP‐A với PP‐13 và PI không làm tăng đáng kể độ nhạy.

Kết luận

Các mức PP‐13 ở quý đầu có thể hữu ích trong việc dự đoán tiền sản giật và tiền sản giật sớm, và độ chính xác của phương pháp này tăng lên khi kết hợp với việc đo PI Doppler ở quý hai. Mặc dù PAPP‐A ở quý đầu cung cấp một số dự đoán cho tiền sản giật khi kết hợp với PI, nhưng không làm tăng khả năng dự đoán tiền sản giật sớm khi PP‐13 và PI được sử dụng cùng nhau. Các nghiên cứu bổ sung là cần thiết để xác định giá trị thực sự của PP‐13 trong sàng lọc tiền sản giật ở quý đầu. Bản quyền © 2006 ISUOG. Xuất bản bởi John Wiley & Sons, Ltd.

Sự cảm nhận và chức năng cảm giác ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp liên quan đến cơ chế kiểm soát ức chế đau khuếch tán (DNIC) Dịch bởi AI
European Journal of Pain - Tập 6 Số 2 - Trang 161-176 - 2002
Mục đích của nghiên cứu là điều tra ảnh hưởng của cơn đau dai dẳng do đau nociceptive viêm đối với các chức năng cảm giác và tác động của kích thích ức chế đau dị thường (HNCS) lên các cơ chế liên quan đến "kiểm soát ức chế đau khuếch tán" (DNIC) trong hai nhóm bệnh nhân có thời gian mắc bệnh khác nhau. Mười một bệnh nhân mắc bệnh viêm khớp dạng thấp có thời gian bệnh ngắn (< 1 năm) (RAI) và 10 bệnh nhân có thời gian bệnh lâu (> 5 năm) (RA5) cùng 21 đối chứng khỏe mạnh theo tuổi và giới tính đã tham gia. Độ nhạy cảm với đau do áp lực, chức năng cơ chế tiếp nhận cơ học ngưỡng thấp và độ nhạy cảm nhiệt, bao gồm cả đau do nhiệt, đã được đánh giá trên khớp đang bị viêm đau cũng như ở vùng không đau, tức là bắp đùi bên phải trước khi thực hiện HNCS (thử nghiệm lạnh) và thực hiện lại chỉ ở bắp đùi trong và sau HNCS. Ở cả RAI và RA5, hiện tượng allodynia với áp lực đã được quan sát thấy trên khớp (p < 0.02 và p < 0.001 tương ứng) kết hợp với tình trạng giảm cảm giác với chạm nhẹ (p < 0.02) và tăng cảm giác với lạnh vô hại (p < 0.05) ở nhóm RA5. Tại bắp đùi, hiện tượng allodynia với áp lực cũng được tìm thấy ở RA5 (p < 0.002). Trong thời gian HNCS, độ nhạy cảm với đau do áp lực đã giảm ở cả bệnh nhân và đối chứng (p < 0.001). Kết luận, hiện tượng allodynia với áp lực đã được tìm thấy ở cả hai nhóm bệnh nhân viêm khớp dạng thấp trên khớp bị viêm, với sự bất thường cảm giác bổ sung ở nhóm RA5. Ở vùng không đau, hiện tượng allodynia với áp lực cũng được tìm thấy ở RA5, cho thấy sự thay đổi trong xử lý trung tâm các chức năng cảm giác ở bệnh nhân RA5. Phản ứng với HNCS tương tự ở cả hai nhóm bệnh nhân RA và nhóm đối chứng, chỉ ra rằng chức năng của các cơ chế liên quan đến DNIC vẫn được bảo tồn.
#viêm khớp dạng thấp #đau nociceptive #kiểm soát ức chế đau khuếch tán #HNCS #allodynia
Lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa: liệu việc biết về chẩn đoán ung thư có quan trọng không? Dịch bởi AI
BMC Gastroenterology - - 2007
Tóm tắt Giới thiệu

Ung thư đường tiêu hóa là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung thư ở nam giới và đứng thứ hai ở phụ nữ tại Iran. Một nghiên cứu đã được tiến hành để khảo sát tình trạng lo âu và trầm cảm trong nhóm bệnh nhân này và xem xét liệu việc nhận thức về chẩn đoán ung thư có ảnh hưởng đến nỗi đau tâm lý của họ hay không.

Phương pháp

Đây là một nghiên cứu cắt ngang về lo âu và trầm cảm ở bệnh nhân ung thư đường tiêu hóa đến khám tại Viện Ung thư Tehran. Lo âu và trầm cảm được đo bằng Thang đo Lo âu và Trầm cảm Bệnh viện (HADS). Đây là một bảng hỏi hợp lệ và được sử dụng phổ biến để đo lường nỗi đau tâm lý ở bệnh nhân ung thư. Dữ liệu nhân khẩu học và lâm sàng cũng được thu thập để khảo sát lo âu và trầm cảm trong các nhóm bệnh nhân, đặc biệt là những người biết về chẩn đoán ung thư của mình và những người không biết.

#ung thư #lo âu #trầm cảm #chẩn đoán ung thư #đau khổ tâm lý
Landau theory of the martensitic transition inA15compounds
American Physical Society (APS) - Tập 14 Số 3 - Trang 1007-1027
BDNF thúc đẩy hoạt hóa của tế bào sao và vi mô góp phần vào tình trạng viêm thần kinh và cảm giác đau cơ học trong viêm bàng quang do cyclophosphamide gây ra Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 17 Số 1 - 2020
Tóm tắt Đặt vấn đề

Các bệnh nhân mắc hội chứng viêm bàng quang/đau bàng quang (IC/BPS) thường phải đối mặt với chất lượng cuộc sống kém do cơn đau mãn tính. Trong các nghiên cứu trước đây của chúng tôi, chúng tôi đã xác định rằng tình trạng viêm thần kinh ở sừng lưng tủy sống (SDH) có liên quan đến các cơ chế của viêm bàng quang. Hơn nữa, đã có nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố dinh dưỡng thần kinh có nguồn gốc từ não (BDNF) tham gia vào việc điều chỉnh viêm thần kinh và cơn đau bệnh lý thông qua tín hiệu BDNF-TrkB; tuy nhiên, vai trò của nó trong viêm bàng quang do cyclophosphamide (CYP) gây ra vẫn chưa rõ ràng. Nghiên cứu này nhằm xác nhận xem tín hiệu BDNF-TrkB có điều chỉnh được viêm thần kinh và cảm giác đau cơ học trong viêm bàng quang do CYP gây ra hay không và xác định cách thức xảy ra.

#viêm bàng quang #BDNF #tín hiệu TrkB #viêm thần kinh #cảm giác đau cơ học
Mô hình toán học về sự khởi đầu phiên dịch để ước lượng hiệu suất của nó nhằm thiết kế mRNA với mức biểu hiện mong muốn ở vi khuẩn. Dịch bởi AI
BMC Systems Biology - Tập 4 Số 1 - 2010
Tóm tắt Đặt vấn đề

Trong lĩnh vực sinh học tổng hợp đang nổi lên, các mô hình kỹ thuật gần đây đã được sử dụng để thiết kế các hệ thống sinh học với chức năng mới. Một trong những thách thức thiết yếu cản trở việc xây dựng những hệ thống như vậy là cần phải tối ưu hóa chính xác mức biểu hiện protein để đảm bảo hoạt động ổn định. Tuy nhiên, việc thiết kế các chuỗi mRNA để biểu hiện với mức protein mục tiêu là rất khó khăn, vì chỉ cần vài thay đổi nucleotide xung quanh codon khởi đầu có thể thay đổi hiệu suất phiên dịch và làm thay đổi đáng kể (lên tới 250 lần) mức biểu hiện protein. Các nghiên cứu trước đây đã sử dụng những phương pháp ad hoc (ví dụ: đột biến ngẫu nhiên) để đạt được những hiệu suất phiên dịch mong muốn cho các chuỗi mRNA. Do đó, việc phát triển một phương pháp toán học có khả năng ước lượng hiệu suất phiên dịch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết kế các chuỗi mRNA trong tương lai nhằm đạt được mức biểu hiện protein mong muốn.

Kết quả

Chúng tôi đề xuất một mô hình toán học tập trung vào sự khởi đầu phiên dịch, là bước giới hạn tốc độ trong phiên dịch. Mô hình sử dụng động lực học gấp nếp mRNA và động lực học gắn ribosome để ước lượng hiệu suất phiên dịch chỉ từ thông tin chuỗi mRNA. Chúng tôi đã xác nhận tính khả thi của mô hình này bằng cách sử dụng dữ liệu biểu hiện đã báo cáo trước đó về protein vỏ MS2. Để xác nhận thêm, chúng tôi đã sử dụng mô hình của mình để thiết kế 22 chuỗi mRNA luxR được dự đoán có hiệu suất phiên dịch đa dạng, dao động từ 10-5 đến 1. Mức biểu hiện của các chuỗi này được đo trong Escherichia coli và cho thấy có tương quan cao (R 2 = 0.87) với các hiệu suất phiên dịch ước lượng của chúng. Hơn nữa, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tính toán của mình để biến đổi thành công một chuỗi mRNA DsRed2 có mức biểu hiện thấp thành một chuỗi mRNA có mức biểu hiện cao bằng cách tối đa hóa hiệu suất phiên dịch của nó thông qua việc điều chỉnh chỉ tám nucleotide ở phía thượng nguồn của codon khởi đầu.

Kết luận

Chúng tôi mô tả một mô hình toán học sử dụng thông tin chuỗi mRNA để ước lượng hiệu suất phiên dịch. Mô hình này có thể được sử dụng để thiết kế các chuỗi mRNA phù hợp nhất có mức biểu hiện protein mong muốn, qua đó tạo điều kiện cho việc sản xuất protein quá mức trong sinh học công nghệ hoặc tối ưu hóa mức biểu hiện protein cần thiết cho việc xây dựng các mạng lưới ổn định trong sinh học tổng hợp.

Vật liệu Chống Dầu Cơ Khí Bền Vững Dưới Nước: Kết Hợp Các Tính Chất Đối Kháng Qua Heterostructure Dịch bởi AI
Advanced Materials - Tập 30 Số 11 - 2018
Tóm tắt

Việc phát triển các vật liệu chống dầu cơ khí bền vững dưới nước là rất quan trọng do nhu cầu cao cho những vật liệu này khi các hoạt động dưới nước gia tăng. Dựa trên nghiên cứu trước đây, một chiến lược mới được thể hiện để chuẩn bị các vật liệu chống dầu cơ khí bền dưới nước bằng cách kết hợp các thuộc tính xung đột sử dụng một cấu trúc dị thể, có kết cấu bên trong dày đặc với lớp cấu trúc vi mô/nao cột trên bề mặt và cấu trúc ngoài ưa nước. Lớp ưa nước trên bề mặt mang lại khả năng siêu chống dầu trong môi trường nước và độ bám dính dầu thấp cho vật liệu, với góc tiếp xúc dầu lớn hơn 150° và độ bám dính thấp hơn 2.8 µN. Đặc tính ổn định của độ bền cơ học bắt nguồn từ cấu trúc bên trong có lớp chống nước cho phép vật liệu chịu được tải trọng lớn dưới nước. Độ căng và độ cứng của phim heterostructure như vậy sau 1 tháng ngâm trong nước biển và dung dịch pH dao động từ 83.92 ± 8.22 đến 86.73 ± 7.8 MPa và từ 83.88 ± 6.8 đến 86.82 ± 5.64 MPa, tương ứng, vượt trội hơn bất kỳ vật liệu chống dầu nào dưới nước hiện được báo cáo.

#Vật liệu chống dầu #cơ khí bền #heterostructure #siêu chống dầu #nước biển
Tổng số: 290   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10