Đầu mặt cổ là gì? Các công bố khoa học về Đầu mặt cổ

Đầu mặt cổ là một thuật ngữ sử dụng trong giải phẫu học để chỉ phần giao giữa đầu và cổ của con người. Nó được hình thành bởi hai khung xương chính là hộp sọ (đ...

Đầu mặt cổ là một thuật ngữ sử dụng trong giải phẫu học để chỉ phần giao giữa đầu và cổ của con người. Nó được hình thành bởi hai khung xương chính là hộp sọ (đầu) và xương cột sống cổ (cổ).
Đầu mặt cổ bao gồm các bộ phận và cấu trúc quan trọng phục vụ các chức năng khác nhau. Dưới đây là một số chi tiết về các phần của đầu mặt cổ:

1. Đầu: Đầu gồm hộp sọ, chứa và bảo vệ não. Hộp sọ bao gồm các xương sọ, bao gồm xương trán, xương thái dương, xương sọ sau và xương xương. Các xương sọ nối với nhau tạo thành một cái nắp bảo vệ não khỏi tổn thương.

2. Mặt: Mặt là bộ phận phía trước của đầu, bao gồm các cấu trúc như quả cầu mắt, mũi, miệng và tai. Mặt chịu trách nhiệm cho các chức năng quan trọng như thị giác, hô hấp, nếp nhăn, nuốt và nghe.

3. Cổ: Cổ là phần dẫn xuất từ hộp sọ và kết thúc ở vai. Xương cột sống cổ có thể linh hoạt và giúp chúng ta cử động đầu, cẳng tay và làm gương mặt. Nó cũng bảo vệ các cột sống cổ và tạo lối vào cho hệ thần kinh và các mạch máu.

4. Mạch máu và hệ thần kinh: Đầu mặt cổ có nhiều mạch máu và hệ thần kinh để cung cấp dưỡng chất và tin tức đến các cơ quan và bộ phận khác trong cơ thể. Hệ thần kinh phục vụ chức năng như cảm nhận, chuyển động và điều chỉnh các hoạt động của các cơ quan và cơ bắp.

5. Mô mềm và cơ: Đầu mặt cổ cũng gồm các mô mềm và cơ, bao gồm da, mỡ, cơ và mô liên kết. Mô mềm và cơ giúp bảo vệ và tạo hình cho đầu mặt cổ, đồng thời cũng tham gia vào các chức năng như nhai, di chuyển và biểu hiện cảm xúc.

Đầu mặt cổ là một phần quan trọng của cơ thể và đóng vai trò quan trọng trong các chức năng cần thiết để sống và tương tác với môi trường xung quanh.
Để đưa ra thêm thông tin chi tiết hơn về đầu mặt cổ, chúng ta có thể xem xét các cấu trúc và chức năng cụ thể của từng phần:

1. Hộp sọ:
- Xương trán: Đây là phần trên cùng của hộp sọ, ở phía trước hộp sọ.
- Xương thái dương: Xương này nằm ở phía sau xương trán và kéo dài xuống phía sau vai.
- Xương sọ sau: Nằm ở phía sau và bảo vệ phần sau của não.
- Xương xương: Xương này nằm ở phía dưới hộp sọ và tạo ra cơ sở cho khuôn mặt.

2. Mặt:
- Quả cầu mắt: Bộ phận quan trọng cho thị giác, nơi mà ánh sáng được nhìn thấy và chuyển đổi thành thông tin gửi lên não.
- Mũi: Chức năng chính của mũi là hô hấp và cảm nhận mùi.
- Miệng: Dùng để nhai, nuốt, nói và biểu hiện cảm xúc.
- Tai: Có hai phần chính, tai ngoài và tai trong. Tai ngoài giúp tập trung âm thanh và tai trong giúp truyền đạt âm thanh vào não.

3. Cổ:
- Xương cột sống cổ: Xương cột sống cổ của con người bao gồm bảy đốt cổ, cho phép chúng ta cử động đầu và cổ. Nó cũng bảo vệ hệ thần kinh và mạch máu cộng hưởng đến đầu và cổ.
- Cơ cổ và cơ vùng cổ: Cái cổ chứa nhiều cơ nhỏ giúp cử động và duy trì đầu và cổ ở vị trí đúng.

4. Mạch máu và hệ thần kinh:
- Mạch máu: Có nhiều mạng lưới mạch máu phục vụ cung cấp máu và dưỡng chất cho đầu mặt cổ. Mạch máu cũng giúp điều chỉnh nhiệt độ và cung cấp oxy và chất dinh dưỡng cho các cấu trúc trong khu vực này.
- Hệ thần kinh: Đầu mặt cổ có nhiều mạng lưới thần kinh phục vụ cho giác quan, cảm giác, chuyển động và điều chỉnh các chức năng cơ bản của hệ thần kinh.

5. Cơ và mô mềm:
- Da: Da bao phủ toàn bộ đầu mặt cổ và có vai trò bảo vệ, bảo vệ khỏi tổn thương và các yếu tố môi trường bên ngoài.
- Cơ: Đầu mặt cổ chứa nhiều nhóm cơ, bao gồm cơ mím, cơ nhai, cơ nấm và các cơ khác. Các cơ này giúp chúng ta thực hiện các chức năng như nhai, nuốt, biểu cảm và di chuyển khuôn mặt.

Tóm lại, đầu mặt cổ là một hệ thống rất phức tạp với nhiều cấu trúc và chức năng, từ thị giác, hô hấp, năn, nghe, di chuyển và biểu hiện cảm xúc. Tất cả các cấu trúc và chức năng này làm cho đầu mặt cổ trở thành một bộ phận quan trọng và không thể thiếu của cơ thể con người.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đầu mặt cổ":

Nhận diện tiên đoán tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 100 Số 7 - Trang 3983-3988 - 2003

Ung thư vú là loại ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ Hoa Kỳ, gây ra hơn 40.000 cái chết mỗi năm. Các khối u vú này bao gồm những dân số tế bào ung thư vú có nhiều kiểu hình đa dạng. Sử dụng mô hình trong đó các tế bào ung thư vú người được nuôi cấy trong chuột suy giảm miễn dịch, chúng tôi nhận thấy rằng chỉ một số ít tế bào ung thư vú có khả năng hình thành khối u mới. Chúng tôi đã phân biệt được giữa các tế bào ung thư có khả năng khởi xướng u (gây u) với các tế bào ung thư không gây u dựa vào biểu hiện dấu mốc trên bề mặt tế bào. Chúng tôi đã tiên đoán nhận diện và cô lập các tế bào gây u như là CD44 + CD24 −/thấp Dòng trong tám trên chín bệnh nhân. Chỉ cần 100 tế bào có kiểu hình này cũng đã có thể hình thành khối u ở chuột, trong khi hàng chục nghìn tế bào có kiểu hình khác không thể hình thành khối u. Quần thể gây u có khả năng được nối nhau liên tục: mỗi lần các tế bào trong quần thể này tạo ra khối u mới chứa thêm các tế bào gây u CD44 + CD24 −/thấp Dòng , cũng như các quần thể hỗn hợp có nhiều kiểu hình đa dạng của các tế bào không gây u có mặt trong khối u ban đầu. Khả năng nhận diện tiên đoán các tế bào ung thư có khả năng gây u sẽ giúp việc làm sáng tỏ các con đường điều tiết sự phát triển và sống sót của chúng. Hơn nữa, bởi vì những tế bào này thúc đẩy sự phát triển khối u, các chiến lược nhằm vào quần thể này có thể dẫn tới các liệu pháp hiệu quả hơn.

#Ung thư vú #tế bào gây u #CD44 #CD24 #Dấu mốc bề mặt tế bào #Chuột suy giảm miễn dịch #Khối u mới #Liệu pháp ung thư
Mitoxantrone so với daunorubicin trong liệu pháp hóa trị khởi phát-củng cố - giá trị của cytarabine liều thấp trong duy trì tình trạng lui bệnh, và đánh giá các yếu tố tiên lượng trong bệnh bạch cầu myeloid cấp ở người cao tuổi: báo cáo cuối cùng. Tổ chức châu Âu về Nghiên cứu và Điều trị Ung thư và Nhóm Hợp tác Huyết học - Ung thư Đan Mạch-Bỉ Hovon. Dịch bởi AI
American Society of Clinical Oncology (ASCO) - Tập 16 Số 3 - Trang 872-881 - 1998
MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP

Tối ưu hóa liệu pháp khởi phát lui bệnh và điều trị sau lui bệnh ở người cao tuổi mắc bệnh bạch cầu myeloid cấp (AML) là chủ đề của một nghiên cứu ngẫu nhiên ở những bệnh nhân trên 60 tuổi. Liệu pháp hóa trị khởi phát được so sánh giữa daunomycin (DNR) 30 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3 so với mitoxantrone (MTZ) 8 mg/m2 vào các ngày 1, 2 và 3, cả hai đều kết hợp với cytarabine (Ara-C) 100 mg/m2 vào các ngày 1 đến 7. Sau khi đạt tình trạng lui bệnh hoàn toàn (CR), bệnh nhân nhận một chu kỳ hóa trị DNR hoặc MTZ bổ sung và sau đó đủ điều kiện tham gia một phân bổ ngẫu nhiên thứ hai giữa tám chu kỳ Ara-C liều thấp (LD) 10 mg/m2 tiêm dưới da mỗi 12 giờ trong 12 ngày mỗi 6 tuần hoặc không điều trị thêm.

KẾT QUẢ

Tổng cộng có 242 bệnh nhân được phân bổ ngẫu nhiên vào DNR và 247 vào MTZ. Độ tuổi trung vị của cả hai nhóm nghiên cứu là 68 tuổi. Bệnh AML thứ phát được ghi nhận ở 26% và 25% bệnh nhân ở mỗi nhánh. Xác suất đạt CR cao hơn (P = .069) với MTZ (47%) so với DNR (38%). Thời gian trung vị của tình trạng hạ bạch cầu trung tính là 19 (DNR) và 22 ngày (MTZ). Tỷ lệ đáp ứng cao hơn với liệu pháp MTZ liên quan đến việc giảm tỷ lệ kháng thuốc hóa trị (32% so với 47%, P = .001). Với thời gian theo dõi trung vị 6 năm, tỷ lệ sống không bệnh trong 5 năm (DFS) là 8% cho mỗi nhóm. Dự đoán sống còn tổng thể không khác biệt giữa các nhóm (6% so với 9% sau 5 năm). Tình trạng hoạt động kém tại thời điểm chẩn đoán, số lượng bạch cầu cao, tuổi cao, AML thứ phát và sự hiện diện của các bất thường về di truyền tế bào đều có tác động tiêu cực đến sự sống sót. AML thứ phát và di truyền tế bào bất thường dự đoán thời gian CR ngắn hơn. Trong số những người phản ứng hoàn toàn, 74 bệnh nhân có thể đánh giá được chỉ định Ara-C và 73 bệnh nhân không điều trị thêm. Tỷ lệ DFS được công bố có ý nghĩa kéo dài hơn (P = .006) cho nhóm điều trị Ara-C (13% [SE = 4.0%] sau 5 năm) so với nhóm không điều trị (7% [SE = 3%]), nhưng tỷ lệ sống còn tổng thể thì tương tự (P = .29): 18% (SE = 4.6%) so với 15% (SE = 4.3%). Phân tích tổng hợp về giá trị của liệu pháp Ara-C sau lui bệnh xác nhận các kết quả này.

KẾT LUẬN

Ở những bệnh nhân cao tuổi chưa được điều trị trước đó với AML, liệu pháp khởi phát MTZ tạo ra tỷ lệ CR có phần tốt hơn so với chế độ có DNR, nhưng không có ảnh hưởng đáng kể đối với thời gian lui bệnh và sống sót. Ara-C trong duy trì có thể kéo dài DFS, nhưng không cải thiện tỷ lệ sống sót.

Landau theory of the martensitic transition inA15compounds
American Physical Society (APS) - Tập 14 Số 3 - Trang 1007-1027
Mô hình toán học về sự khởi đầu phiên dịch để ước lượng hiệu suất của nó nhằm thiết kế mRNA với mức biểu hiện mong muốn ở vi khuẩn. Dịch bởi AI
BMC Systems Biology - Tập 4 Số 1 - 2010
Tóm tắt Đặt vấn đề

Trong lĩnh vực sinh học tổng hợp đang nổi lên, các mô hình kỹ thuật gần đây đã được sử dụng để thiết kế các hệ thống sinh học với chức năng mới. Một trong những thách thức thiết yếu cản trở việc xây dựng những hệ thống như vậy là cần phải tối ưu hóa chính xác mức biểu hiện protein để đảm bảo hoạt động ổn định. Tuy nhiên, việc thiết kế các chuỗi mRNA để biểu hiện với mức protein mục tiêu là rất khó khăn, vì chỉ cần vài thay đổi nucleotide xung quanh codon khởi đầu có thể thay đổi hiệu suất phiên dịch và làm thay đổi đáng kể (lên tới 250 lần) mức biểu hiện protein. Các nghiên cứu trước đây đã sử dụng những phương pháp ad hoc (ví dụ: đột biến ngẫu nhiên) để đạt được những hiệu suất phiên dịch mong muốn cho các chuỗi mRNA. Do đó, việc phát triển một phương pháp toán học có khả năng ước lượng hiệu suất phiên dịch sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thiết kế các chuỗi mRNA trong tương lai nhằm đạt được mức biểu hiện protein mong muốn.

Kết quả

Chúng tôi đề xuất một mô hình toán học tập trung vào sự khởi đầu phiên dịch, là bước giới hạn tốc độ trong phiên dịch. Mô hình sử dụng động lực học gấp nếp mRNA và động lực học gắn ribosome để ước lượng hiệu suất phiên dịch chỉ từ thông tin chuỗi mRNA. Chúng tôi đã xác nhận tính khả thi của mô hình này bằng cách sử dụng dữ liệu biểu hiện đã báo cáo trước đó về protein vỏ MS2. Để xác nhận thêm, chúng tôi đã sử dụng mô hình của mình để thiết kế 22 chuỗi mRNA luxR được dự đoán có hiệu suất phiên dịch đa dạng, dao động từ 10-5 đến 1. Mức biểu hiện của các chuỗi này được đo trong Escherichia coli và cho thấy có tương quan cao (R 2 = 0.87) với các hiệu suất phiên dịch ước lượng của chúng. Hơn nữa, chúng tôi đã sử dụng phương pháp tính toán của mình để biến đổi thành công một chuỗi mRNA DsRed2 có mức biểu hiện thấp thành một chuỗi mRNA có mức biểu hiện cao bằng cách tối đa hóa hiệu suất phiên dịch của nó thông qua việc điều chỉnh chỉ tám nucleotide ở phía thượng nguồn của codon khởi đầu.

Kết luận

Chúng tôi mô tả một mô hình toán học sử dụng thông tin chuỗi mRNA để ước lượng hiệu suất phiên dịch. Mô hình này có thể được sử dụng để thiết kế các chuỗi mRNA phù hợp nhất có mức biểu hiện protein mong muốn, qua đó tạo điều kiện cho việc sản xuất protein quá mức trong sinh học công nghệ hoặc tối ưu hóa mức biểu hiện protein cần thiết cho việc xây dựng các mạng lưới ổn định trong sinh học tổng hợp.

Khối thần kinh ngực định hướng bằng siêu âm I và khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn giúp giảm đau sau phẫu thuật cho bệnh nhân thực hiện phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến Dịch bởi AI
Pain Physician - Tập 4 Số 22;4 - Trang E315-E323 - 2019

Nền tảng: Việc áp dụng đồng thời khối thần kinh ngực và khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn (SPB) là một trong những chiến lược giảm đau đa phương pháp được mong muốn nhất, với việc thực hiện rộng rãi lộ trình phục hồi sớm sau phẫu thuật cho phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến (MRM). Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu hiện tại là điều tra hiệu quả và an toàn của khối thần kinh ngực định hướng bằng siêu âm I (PECS I) và SPB trong giảm đau sau phẫu thuật sau MRM. Thiết kế nghiên cứu: Một nghiên cứu ngẫu nhiên, tiềm năng. Địa điểm: Một trung tâm y tế học thuật. Phương pháp: Tổng cộng có 61 phụ nữ thực hiện MRM được phân chia ngẫu nhiên thành 2 nhóm. Nhóm chứng (nhóm C, n = 32) chỉ nhận gây mê toàn thân, trong khi nhóm điều trị PECS I + SPB (nhóm PS, n = 29) nhận được sự kết hợp của khối thần kinh ngực và SPB bên cạnh gây mê toàn thân. Kết quả: Điểm đau trên thang đo analog trực quan, mức tiêu thụ opioid, thời gian ở đơn vị chăm sóc hậu phẫu, và tỷ lệ sự kiện bất lợi thấp hơn ở nhóm PS so với nhóm C. Hơn nữa, PECS I kết hợp với SPB cải thiện chất lượng giấc ngủ và mức độ hài lòng của bệnh nhân đối với việc giảm đau. Giới hạn: Nghiên cứu này bị giới hạn bởi kích thước mẫu. Kết luận: Những kết quả này cho thấy sự kết hợp của PECS I và SPB cung cấp sự giảm đau ngoại khoa ưu việt trong phẫu thuật ung thư vú.

#Khối thần kinh ngực #khối mặt phẳng ngón tay - liên sườn #giảm đau sau phẫu thuật #phẫu thuật cắt bỏ vú đại cải tiến
Nghiên cứu sự thay đổi độ cao giữa mặt quasigeoid cục bộ Hòn Dấu và mặt quasigeoid toàn cầu trên phạm vi toàn cầu
Bài báo khoa học này đã chứng minh sự không đổi của độ cao của điểm bất kỳ trên mặt quasigeoid cục bộ Hòn Dấu so với mặt quasigeoid toàn cầu trên phạm vi toàn cầu. Đây là cơ sở khoa học rất quan trọng để khai thác các mô hình trọng trường Trái đất EGM và mô hình địa hình động lực trung bình MDT (Mean Dynamic Topography) quốc tế trong việc giải quyết các bài toán trắc địa vật lý trên lãnh thổ quốc gia hoặc khu vực.
NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM MỘT SỐ THÔNG SỐ TẾ BÀO MÁU NGOẠI VI, ĐÔNG MÁU VÀ DẤU ẤN VIÊM Ở NGƯỜI BỆNH COVID-19 TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 525 Số 1B - 2023
Đặt vấn đề: Nhiễm SARS-CoV-2 kích thích phản ứng miễn dịch, làm thay đổi số lượng và hình thái tế bào máu hoặc rối loạn đông máu và dấu ấn viêm. Tuy nhiên, vai trò các chỉ số này trong phân loại mức độ bệnh COVID-19 còn chưa rõ. Nghiên cứu được thực hiện để bước đầu đánh giá khả năng phân tầng của các thông số trên ở người bệnh COVID-19 lúc nhập viện. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm một số thông số tế bào máu ngoại vi, đông máu và dấu ấn viêm ở người bệnh COVID-19 lúc nhập viện. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu trên 269 người bệnh COVID-19 từ 18 tuổi trở lên, có kết quả dương tính với vi-rút SARS-CoV-2 bằng realtime RT-PCR, được xếp mức độ bệnh (theo tiêu chuẩn của Bộ Y tế) là trung bình, nặng và nguy kịch, tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ từ tháng 1/2021-3/2022. Kết quả: Tuổi trung bình là 62,7 tuổi. Bệnh nền gặp nhiều nhất là tăng huyết áp (n=139) chiếm 51,7%, tiếp theo là đái tháo đường (n=113) chiếm 42%, bệnh thận mạn (n=55) chiếm 20,4%, bệnh tim mạch (n=53) chiếm 19,7%. WBC, neutrophile (x109/L), neutrophile (%), lymphocyte (x109/L), lymphocyte (%), monocyte (x109/L), monocyte (%), eosinophile (x109/L), eosinophile (%), basophile (%), NLR, PT, INR, fibrinogen, D-Dimer, CRP, LDH, ferritin lúc nhập viện có sự khác biệt (p<0,05) ở người bệnh mức độ trung bình, nặng và nguy kịch. Kết luận: Lúc nhập viện, người bệnh COVID-19 mức độ càng nặng và nguy kịch có biểu hiện các thông số WBC, neutrophile, NLR, fibrinogen, D-Dimer, CRP, LDH, ferritin càng cao và các chỉ số lymphocyte, monocyte, eosinophile, basophile (%) càng thấp; riêng người bệnh mức độ càng nguy kịch có thời gian PT càng kéo dài và INR càng cao.
#COVID-19 #huyết học #tổng phân tích tế bào máu #tế bào máu ngoại vi #đông máu #dấu ấn viêm.
Lựa chọn thiết bị để hỗ trợ ổn định hệ thống điện khi đấu nối nhà máy điện mặt trời công suất lớn
Bài báo nghiên cứu các tác động của nhà máy điện mặt trời có công suất lớn tại khu vực tỉnh Đắk Lắk (quy hoạch năm 2025). Thực hiện mô hình hóa các thiết bị điện, BESS, STATCOM, mô hình toán học của pin mặt trời, cấu trúc lưới điện trên phần mềm PSS/E phù hợp với quy hoạch điện năm 2025. Thực hiện giả định các kịch bản nguy hiểm bằng cách thay đổi cường độ bức xạ mặt trời, mô phỏng các sự cố ngắn mạch 3 pha trên đường dây truyền tải có đấu nối với nhà máy điện mặt trời. Các kết quả nghiên cứu tập trung vào sự dao động của tần số và điện áp theo các kịch bản nguy hiểm. Để nâng cao hơn sự ổn định của hệ thống điện, bài báo đề xuất ứng dụng các thiết bị STATCOM, BESS lắp đặt tại thanh cái 220kV nhà máy điện mặt trời, đồng thời so sánh và lựa chọn thiết bị BESS để hỗ trợ ổn định hệ thống điện khi nhà máy điện mặt trời công suất lớn đấu nối vào hệ thống.
#điện mặt trời #BESS #MPPT #cường độ bức xạ mặt trời #STATCOM #hệ thống điện
Khảo sát thực trạng kiến thức, thực hành của điều dưỡng về an toàn người bệnh trong chăm sóc sau phẫu thuật vùng đầu mặt cổ tại Bệnh viện Bỏng Quốc gia
Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng - Số 3 - Trang 94-103 - 2023
An toàn người bệnh là vấn đề được quan tâm trong tất cả các quy trình chăm sóc sau phẫu thuật. Trung tâm Phẫu thuật Tạo hình Thẩm mỹ và Tái tạo (PTTHTM & TT), Bệnh viện Bỏng quốc gia Lê Hữu Trác đã tiến hành nghiên cứu để xác định bức tranh khái quát về kiến thức, thực hành của điều dưỡng (ĐD) về an toàn người bệnh (ATNB) trong chăm sóc sau phẫu thuật. Nghiên cứu cắt ngang được thực hiện từ trên toàn bộ tất cả điều dưỡng tại Trung tâm từ tháng 05/2022 đến 05/2023 đã cho kết quả: 77,3% điều dưỡng có kiến thức ATNB trong chăm sóc sau phẫu thuật đạt yêu cầu. Trong đó, tỷ lệ ĐD có điểm kiến thức đạt cao nhất là về kiểm soát nhiễm khuẩn chiếm 83,5% với điểm trung bình là 20,2 ± 4,04. 89,2% điều dưỡng có thái độ đúng về ATNB trong chăm sóc sau phẫu thuật. Điều dưỡng có thái độ đúng về đảm bảo ATNB trong chăm sóc và sử dụng trang thiết bị vật tư y tế cao nhất đạt 75%. Tỷ lệ ĐD có thái độ đạt về xác định chính xác người bệnh và cải thiện thông tin trong chăm sóc sau phẫu thuật thấp nhất (52,3%).
#An toàn người bệnh #chăm sóc hậu phẫu #vi phẫu cằm cổ
Hiệu quả giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống (erector spinae plane block) cho phẫu thuật tim hở
Áp dụng gây tê mặt phẳng cơ dựng sống giúp giảm đau và không cần sử dụng opioid sau phẫu thuật tim hở. Mục tiêu của nghiên cứu là đánh giá khả năng giảm đau sau mổ của phương pháp gây tê mặt phẳng cơ dựng sống cho phẫu thuật tim hở. Thiết kế nghiên cứu can thiệp lâm sàng không đối chứng được thực hiện từ tháng 6/2020 đến tháng 6/2021 tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 54 bệnh nhân tuổi từ 18 đến 80, có chỉ định mổ tim hở theo kế hoạch, được đặt catheter ESPB hai bên ngay trước khi khởi mê, liều ropivacain tính theo cân nặng bệnh nhân, phối hợp thêm paracetamol truyền tĩnh mạch sau mổ. Điểm visual analogue scale, huyết áp trung bình khi nghỉ và khi vận động được đánh giá tại các thời điểm ngay sau rút nội khí quản và sau rút là 6, 12, 18, 24, 36, 48 giờ; đánh giá khí máu động mạch mỗi 24 và 48 giờ. Kết quả cho thấy điểm VAS trung bình khi nghỉ < 3 và khi vận động ≤ 4. Có 7,4% bệnh nhân phải chuẩn độ morphin; 3,7% bệnh nhân phải phối hợp PCA morphin. ESPB (Erector spinae plane block) không làm tụt huyết áp và các chỉ số khí máu động mạch trong giới hạn bình thường ở các thời điểm nghiên cứu; không có biến chứng sau phẫu thuật. Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống là phương pháp an toàn hiệu quả trong giảm đau sau phẫu thuật tim hở.
#Gây tê mặt phẳng cơ dựng sống #mổ tim hở #giảm đau.
Tổng số: 190   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10